Tin tức tài chính Tin tức tài chính

Hội nghị xúc tiến đầu tư của Việt Nam tại Hoa Kỳ: nhiều cơ hội đầu tư mới

Như thông tin đã đưa, được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 1/7-3/7/2015, tại Thành phố New York - Hoa Kỳ, Bộ Tài chính đã tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam tại Hoa Kỳ với chủ đề "Việt Nam của Tôi - Điểm đến đầu tư của Bạn" với nhiều hoạt động song phương và chuyên đề, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng dẫn đầu đoàn công tác.

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng phát biểu tại Hội nghị

 Hội nghị xúc tiến đầu tư lần này được tổ chức với hai phiên đối thoại chính sách và đối thoại Doanh nghiệp với nhà đầu tư đã thu hút sự quan tâm của trên 160 đại diện các Quỹ, Ngân hàng đầu tư toàn cầu (HSBC, Tập đoàn Citigroup, Blackstone, Warburg Pincus, Manulife Global, Capital Groups Companies Inc…)

Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã có bài phát biểu quan trọng nhằm mục đích tạo một kênh đối thoại thực chất giúp cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư Hoa Kỳ hiểu rõ hơn tình hình Việt Nam, hiểu rõ hơn chủ trương và quyết tâm đổi mới của Chính phủ Việt Nam và quan trọng nhất là củng cố lòng tin của nhà đầu tư Hoa Kỳ đối với tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam với thông điệp "Việt Nam của Tôi - Điểm đến đầu tư của Bạn".

Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính giới thiệu toàn văn bài phát biểu quan trọng của Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng tại Hội nghị:

Vào những ngày này cách đây 20 năm, Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao, mở ra một giai đoạn mới vì hợp tác, phát triển giữa 2 bên. Theo đó, Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết Hiệp định Thương mại Song phương sau 5 năm bình thường hóa quan hệ. Quan hệ hợp tác về kinh tế - đầu tư - tài chính - thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ không ngừng được xây dựng và phát triển trên nền tảng 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Trao đổi đối ngoại song phương trong các lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, những năm gần đây, phát triển mạnh mẽ, không ngừng.

Trong chuyến thăm Hoa Kỳ cấp Nhà nước của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang năm 2013, lãnh đạo hai bên đã thống nhất nâng cấp quan hệ hai nước lên tầm Quan hệ đối tác toàn diện. Đây là một sự khởi đầu tiếp nối quan trọng, làm sâu sắc, mở rộng các mối quan hệ trên cơ sở hợp tác sẵn có giữa hai nước.

Đến nay, Hoa Kỳ là một trong những đối tác kinh tế - thương mại - đầu tư lớn nhất của Việt Nam. Tính đến tháng 2/2015, Hoa Kỳ có 729 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng nguồn vốn khoảng 11 tỷ USD, đứng thứ 7 trong 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Quy mô vốn bình quân một dự án của Hoa Kỳ khoảng 15,35 triệu USD; cao hơn so với mức bình quân chung một dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là 14,3 triệu USD/dự án.

Quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ không ngừng phát triển, quy mô xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ năm 2014 đã đạt gần 29 tỷ USD, tăng gấp 36 lần so với năm 2000,  trở thành quốc gia xuất khẩu lớn nhất của khu vực ASEAN vào thị trường Hoa Kỳ và dự báo còn tăng mạnh trong các năm tới với chất lượng hàng hóa, giá trị gia tăng ngày càng cao. 

Trên thị trường vốn, nhiều tập đoàn tài chính lớn của Hoa Kỳ đã có mặt tại Việt Nam. Tổng số nhà đầu tư Hoa Kỳ ghi nhận đến thời điểm hiện tại là 995 nhà đầu tư (trong đó tổ chức đầu tư là 565 và cá nhân đầu tư là 430) chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng số các nhà đầu tư nước ngoài đã được cấp mã số giao dịch. Về khối lượng, các nhà đầu tư Hoa Kỳ hiện đang nắm giữ hơn 5 triệu trái phiếu, hơn 8.500 chứng chỉ quỹ và hơn 1 tỷ cổ phiếu với tổng giá trị hơn 12 nghìn tỷ đồng trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Những sự kiện và con số nói trên cho thấy các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã rất quan tâm, đóng góp và có vai trò rất quan trọng đối với kinh tế và tài chính Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng ghi nhận và đánh giá rất cao vai trò và sự hiện diện của các tập đoàn tài chính, các nhà đầu tư Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư gián tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam hiện nay còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của nhà đầu tư Hoa Kỳ và so với khả năng hấp thụ vốn đầu tư của thị trường Việt Nam. Như vậy, mảng thị trường vốn vẫn còn nhiều dư địa mới cho hợp tác giữa hai nước, và còn nhiều tiềm năng cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ.

Trong vòng 10 năm qua tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt bình quân 6,4%/năm, thuộc nhóm 3 nước có mức tăng trưởng đứng đầu khu vực Châu Á. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2014 đạt 5,98%, cao hơn mục tiêu ban đầu đề ra (5,8%) và cao hơn mức tăng 5,42% của năm 2013. Riêng 6 tháng đầu năm 2015, tốc độ tăng trưởng đạt 6,28%, mức cao nhất của 6 tháng đầu năm trong vòng 5 năm qua, khẳng định xu thế tốt hơn, bền vững hơn so với các năm trước. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng. Với việc đẩy mạnh các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh và tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài, năm 2014 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đạt 15,6 tỷ USD, tăng 9,6% so với cũng kỳ năm 2013. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2014 ước tính đạt 12,4 tỷ USD, tăng 7,4% so với năm 2013. Tổng vốn đầu tư phát triển 6 tháng 2015 tăng 9,4% so với cùng kỳ  năm trước (cùng kỳ tăng 8,2%). Vốn FDI thực hiện 6 tháng đầu năm 2015 đạt 6,3 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại có sự cải thiện trong những năm gần đây. Chỉ số sản xuất công nghiệp PMI liên tục duy trì mức trên 50 từ tháng 9/2013 đến nay cho thấy sự phục hồi của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lòng tin của người tiêu dùng đang tiếp tục có xu hướng cải thiện.

Lạm phát đã được kiểm soát, có chiều hướng giảm từ năm 2011 và mục tiêu không quá 5% về dài hạn. Trong năm 2014, chỉ số CPI chỉ tăng 1,84% so với cuối năm 2013 và đến tháng 6/2015, chỉ số CPI chỉ tăng 1% so với cùng kỳ năm ngoái. Mặt bằng lãi suất đã giảm xuống mức trước khủng hoảng toàn cầu năm 2008 và hiện ở mức 7%-8%. Tăng trưởng tín dụng năm 2014 đạt 12,62%. Tăng trưởng tín dụng đến 19/6/2015 đạt 6,28%, là mức cao nhất trong 3 năm gần đây. Tỷ giá được duy trì ổn định và điều chỉnh theo thị trường. Dự trữ ngoại tệ đã đạt mức 12 tuần nhập khẩu và gia tăng nhanh chóng trong thời gian gần đây.

Vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cũng được đẩy mạnh, tập trung vào việc cải thiện thanh khoản; hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng (đến nay đã hợp nhất, sáp nhập 11 ngân hàng thành 5 ngân hàng); đẩy mạnh hoạt động xử lý nợ xấu qua việc tăng cường vai trò của Công ty Quản lý Tài sản (VAMC); yêu cầu các ngân hàng trích lập dự phòng để xử lý nợ xấu; tăng cường quản trị ngân hàng; nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng.

Chính sách tài khóa được cải cách theo hướng nâng cao hiệu quả, bảo đảm kỷ luật tài khóa; thâm hụt tài khóa hàng năm được kiểm soát ở mức 5%GDP và điều chỉnh giảm dần nợ công. Nợ nước ngoài hiện nay ở trạng thái an toàn khi quy mô chỉ vào khoảng 21%GDP, trong đó chủ yếu là vốn ODA (chiếm 76% nợ nước ngoài). Điều này góp phần bảo đảm an toàn cho hệ thống tài chính quốc gia.

Chính phủ Việt Nam kiên định phát triển kinh tế xã hội theo cơ chế thị trường. Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam sẽ tập trung vào cải cách cơ cấu, đảm bảo bền vững môi trường, bình đẳng xã hội cũng như các vấn đề mới phát sinh trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô. Để thực hiện được mục tiêu đó, chiến lược xác định ba lĩnh vực đột phá bao gồm: Phát triển nguồn nhân lực (nhất là nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp hiện đại và đổi mới sáng tạo); Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; Phát triển hạ tầng. Để thực hiện các mục tiêu chiến lược này, nhu cầu về vốn là rất lớn. Đặc biệt là các nguồn vốn đi kèm với chuyên môn và kinh nghiệp phát triển.

Chính phủ Việt Nam cũng cam kết tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn hỗ trợ sản xuất, kinh doanh đồng thời đẩy mạnh cải cách thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống kết cấu hạ tầng; tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh; thực hiện tái cơ cấu đầu tư, tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường tài chính.

Chính phủ Việt Nam cũng đang hướng tới một chính phủ hiện đại qua việc cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Đây là yếu tố quan trọng nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cụ thể, Chính phủ Việt Nam đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì thực hiện rút ngắn thời gian thông quan, giảm thủ tục hành chính lĩnh vực thuế, ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính...

Chính phủ Việt Nam cũng đã đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đến nay Việt Nam đã ký kết Hiệp định Thương mại tự do FTA với nhiều các nước và khu vực lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc...và sắp tới đây là Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Về triển vọng chính sách vĩ mô, trong thời gian tới Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung:

Đối với chính sách tài khóa: (i) tăng khả năng thu và kiểm soát mức bội chi; (ii) tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng; (iii) bảo đảm an toàn nợ công và nợ nước ngoài; (iv) nâng cao mức độ tín nhiệm quốc gia; (v) phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ nhằm bảo đảm ổn định vĩ mô.

Đối với chính sách tiền tệ: (i) kiểm soát lạm phát; (ii) bảo đảm an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng; (iii) nâng cao dự trữ ngoại tệ quốc gia.

Cải cách DNNN đã được Chính phủ Việt Nam thực hiện gần 20 năm qua gắn liền với quá trình sắp xếp đổi mới và cổ phần hóa khu vực DNNN. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, nhiều quyết sách mới đã được triển khai nhằm nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp này theo cơ chế thị trường, đồng thời phát triển khu vực tư nhân. Chính phủ đã ban hành Nghị định về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp Nhà nước nhằm bảo đảm nâng cao hiệu quả đầu tư và công khai, minh bạch. Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật quản lý, sử dụng đầu tư vốn Nhà nước…cũng mới được Quốc hội thông qua với các quy định theo hướng thông lệ và điều ước quốc tế, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, bảo đảm quyền tự do đầu tư kinh doanh trong các ngành nghề pháp luật không cấm, hạn chế sự can thiệp của nhà nước, giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo sự cạnh tranh bình đẳng. Trong năm 2015, Chính phủ Việt Nam đang tiếp tục tập trung mạnh mẽ hơn nữa đẩy nhanh và thực hiện hiệu quả quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN.

Để khắc phục các vướng mắc về cơ chế, chính sách trong công tác cổ phần hóa nhằm đẩy nhanh tái cấu trúc DNNN, Chính phủ Việt Nam gần đây đã ban hành Quyết định 51/2014/QĐ-TTg về thoái vốn, bán cổ phần doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời tổ chức chỉ đạo quyết liệt và ban hành nhiều giải pháp tháo gỡ, trong đó yêu cầu các Bộ ngành, Tập đoàn, Tổng công ty phải quán triệt thực hiện tốt yêu cầu về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN; xây dựng và công khai kế hoạch CPH, thoái vốn ngoài ngành và có chế tài xử lý nghiêm khắc đối với các trường hợp không thực hiện được theo tiến độ; cho phép DNNN được thoái vốn dưới mệnh giá, giá trị sổ sách; thực hiện chuyển nhượng vốn theo thỏa thuận; giảm tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty, các ngân hàng thương mại cổ phần xuống mức 65%; yêu cầu thực hiện IPO gắn với niêm yết, đăng ký giao dịch trên TTCK; cho phép tìm kiếm đối tác chiến lược nước ngoài trước khi IPO. Hiện nay các bộ ngành đang tiếp tục cải cách hơn nữa nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước như việc sẽ cho phép bán trọn lô, xem xét tăng tỷ lệ chào bán ra bên ngoài....

Với các nỗ lực và quyết tâm chính sách, trong năm năm 2014, số DNNN cổ phần hóa tăng gấp 3 lần và số cổ phần bán được tăng gấp 8 lần so với năm 2013; gấp 1,5 lần so với 3 năm 2011 - 2013; tỷ lệ chào bán thành công cũng đạt mức cao nhất so với 4 năm trở lại đây. Trong năm 2015, sẽ tiếp tục cổ phần hóa 289 DNNN và thoái vốn trên 300 DN, trong đó có nhiều doanh nghiệp quy mô rất lớn. Các doanh nghiệp cổ phần hóa niêm yết trên TTCK đã ngày càng minh bạch và đạt hiệu quả kinh doanh tốt hơn. Cụ thể đó là quy mô, hiệu quả hoạt động, chất lượng quản trị của các công ty này cũng lên cao rõ rệt: tổng tài sản tăng bình quân 12%/năm, tổng vốn CSH tăng bình quân 16%/năm. Hầu hết các DNNN cổ phần hóa niêm yết thì hoạt động kinh doanh đều có lãi qua các năm và có sự tăng trưởng cả về doanh thu cũng như lợi nhuận, bình quân hàng năm tổng doanh thu tăng khoảng 3,5%, lợi nhuận tăng khoảng 8,6% năm.

Trong thời gian tới chúng tôi sẽ tập trung: (i) thực hiện cổ phần hóa DNNN, thoái vốn ngoài ngành theo kế hoạch, đặc biệt là CPH các DNNN quy mô lớn; (ii) áp dụng nguyên tắc quản trị hiện đại và công bố thông tin công khai, minh bạch; (iii) bảo đảm hoạt động của các DNNN theo cơ chế thị trường; (iv) tăng cường giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; (v) giảm mạnh tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các DNNN cổ phần hóa; (vi) cho phép dành tỷ lệ lớn để bán cho đối tác chiến lược nước ngoài; (vii) yêu cầu các DNNN cổ phần hóa lên niêm yết trên TTCK.

Cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, cổ phần hóa DNNN, Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đến việc phát triển một cách bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam.

Đến nay đã có 670 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng giá trị vốn hóa khoảng 55 tỷ USD, đạt khoảng 32% GDP. Số lượng tài khoản nhà đầu tư đạt khoảng 1,4 triệu tài khoản, tăng 40% so với cuối năm 2010. NĐTNN liên tục có xu thế mua ròng trên TTCK Việt Nam từ năm 2009 đến nay, giá trị danh mục đầu tư gián tiếp đã tăng 2,5 lần trong vòng 5 năm qua. Giá trị giao dịch bình quân của thị trường chứng khoán đạt 260 triệu USD mỗi ngày trong năm 2014, tăng gấp 2 lần so với năm 2010. Quy mô huy động vốn qua TTCK năm 2014 đạt 14 tỷ USD, tăng 2,5 lần so với năm 2010 và đóng góp 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Thị trường trái phiếu Việt Nam thường xuyên đứng trong nhóm 3 nước có tốc độ phát triển cao nhất khu vực Châu Á, dư nợ trái phiếu hiện chiếm khoảng 22%GDP.

Tính đến cuối năm 2014 có 43 công ty quản lý quỹ (trong đó 21 văn phòng đại diện công ty quản lý quỹ nước ngoài), 85 công ty chứng khoán, 26 quỹ đầu tư hoạt động trên TTCK; tổng giá trị huy động của các quỹ đầu tư chứng khoán năm 2014 đạt hơn 7.000 tỷ đồng; tổng giá trị danh mục quản lý của các công ty quản lý quỹ đạt 4,4 tỷ USD.

Trong năm qua, các tổ chức kinh doanh chứng khoán tiếp tục được tái cơ cấu, hợp nhất, sát nhập để tăng năng lực hoạt động, tăng quy mô vốn, quản trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro. Thông qua tái cấu trúc đã giảm số lượng và nâng cao chất lượng hoạt động của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, số lượng công ty chứng khoán giảm từ 105 xuống 85 công ty, số lượng công ty quản lý quỹ giảm từ 49 xuống 43 công ty; thay thế các quỹ đầu tư hoạt động theo dạng quỹ đóng, quỹ thành viên bằng các quỹ mở hoạt động linh hoạt hơn và có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn. Chúng tôi cũng đã ban hành các quy định về quản trị rủi ro, an toàn tài chính và các tiêu chí cảnh báo sớm theo tiêu chuẩn quốc tế.

Việc phát triển bền vững thị trường chứng khoán không chỉ thể hiện ở số lượng doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa và niêm yết, mà Chính phủ Việt Nam còn chú trọng hơn nữa vào chất lượng hàng hóa đưa ra TTCK để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư cũng như sự phát triển bền vững của thị trường.

Chúng tôi ghi nhận vai trò của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK. Với mục tiêu cổ phần hóa DNNN mạnh mẽ của Chính phủ, trong thời gian tới, ước tính tổng giá trị các DNNN sẽ được cổ phần hóa đạt khoảng 25 tỷ USD, số lượng cổ phần chào bán ra bên ngoài khoảng 3,75 tỷ USD. Nhưng phải thẳng thắn nhìn nhận một thực tế rằng, với giá trị lớn như vậy, nguồn tiền trong nước chắc chắn sẽ không đủ để hấp thụ hết số cổ phần nói trên. Do đó, Chính phủ Việt Nam đánh giá cao vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có nhà đầu tư Hoa Kỳ trong tiến trình này. Trên thực tế, ngoài lượng vốn đầu tư, các thông lệ quản trị doanh nghiệp tốt, công nghệ cập nhật đi cùng sẽ giúp cải thiện một cách thực chất chất lượng hàng hóa của thị trường.

Về triển vọng chính sách trong lĩnh vực chứng khoán, trong thời gian tới chúng tôi sẽ tập trung:

Triển khai Nghị định số 60/2015/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 58/2012 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán, trong đó có việc nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong các công ty đại chúng, ngoại trừ những lĩnh vực hạn chế, kinh doanh có điều kiện, nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu không hạn chế theo cam kết WTO.

Khơi thông dòng vốn trong nước và nước ngoài: (i) thực hiện giải pháp nhằm nâng hạng TTCK Việt Nam từ nhóm các thị trường chứng khoán cận biên lên nhóm các thị trường chứng khoán đang phát triển trên bảng MSCI; (ii) xây dựng hệ thống các quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí tự nguyện, quỹ hưu trí bổ sung, thiết lập tổ chức định mức tín nhiệm; (iii) cải cách thủ tục hành chính, xây dựng hệ thống cấp mã số online cho NĐTNN; (iv) triển khai rút ngắn chu kỳ thanh toán trong giao dịch chứng khoán từ T+3 xuống T+2 và các biện pháp kỹ thuật khác nhằm thúc đẩy thanh khoản trên thị trường thứ cấp.

Bên cạnh đó, cũng đề xuất cho phép NĐTNN được đầu tư không hạn chế vào trái phiếu (bao gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp). 

Triển khai xây dựng thị trường chứng khoán phái sinh: Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 42 về thị trường chứng khoán phái sinh. Hiện nay chúng tôi đang hoàn tất thông tư và các quy định, quy chế hướng dẫn nhằm sớm đưa thị trường này vào vận hành, theo đó trước mắt sẽ triển khai hợp đồng tương lai chỉ số và hợp đồng tương lai trái phiếu.

Tiếp tục phát triển các loại hình quỹ như quỹ ETF, quỹ đầu tư bất động sản, quỹ hưu trí.

Phát triển sản phẩm Ca-vờ oa-rờn (covered warrant), chứng chỉ lưu ký toàn cầu, các bộ chỉ số chứng khoán mới…

Tiếp tục nâng cao yêu cầu công bố thông tin, tính minh bạch và quản trị công ty: (i) sửa quy định về công bố thông tin theo thông lệ quốc tế, đặc biệt là các nguyên tắc của IOSCO; (ii) sửa quy định về quản trị công ty tại Thông tư 121 theo nguyên tắc của OECD.

Xây dựng chuẩn mực kế toán cho thị trường vốn theo giá trị hợp lý: trước mắt sẽ áp dụng cho lĩnh vực chứng khoán nhằm phản ánh đúng tình hình hoạt động của các tổ chức trung gian.

Hiện đại hóa tổ chức thị trường giao dịch, hệ thống bù trừ, thanh toán: (i) thực hiện hợp nhất 2 SGDCK hiện tại nhằm nâng cao hiệu quả, tạo thuận lợi cho NĐT; (ii) nâng cao hệ thống hạ tầng công nghệ, tăng cường khả năng kết nối khu vực; (iii) phát triển mới hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán bù trừ; (iv) tiếp tục hoàn thiện hệ thống giám sát, công bố thông tin; (v) chuyển giao chức năng thanh toán tiền sang Ngân hàng trung ương theo thông lệ; (vi) tiếp tục hoàn thiện chức năng DVP của Trung tâm lưu ký theo chuẩn mực quốc tế; (vii) phát triển chức năng CCP cho Trung tâm lưu ký phục vụ giao dịch chứng khoán phái sinh, tiến tới cho các giao dịch khác.

Tiếp tục tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm: (i) nâng cao chức năng điều tra cho UBCKNN; (ii) phát triển hệ thống giám sát thị trường; (iii) nâng chế tài xử lý vi phạm; (iv) phối hợp thực hiện giám sát giao dịch xuyên biên giới.

Hoàn thiện cơ chế thuế áp dụng cho lĩnh vực chứng khoán:  xem xét áp dụng cơ chế thuế phù hợp cho các sản phẩm mới và cho các loại giao dịch chứng khoán theo thông lệ quốc tế nhằm khuyến khích đầu tư lâu dài.

Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, hệ thống pháp lý đã ngày càng hoàn thiện; sản phẩm bảo hiểm đa dạng và thị trường có tốc độ phát triển nhanh. Lĩnh vực bảo hiểm cũng là lĩnh vực Việt Nam ưu tiên mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Đến nay, có nhiều doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ đã tham gia thị trường Việt Nam như AIA, AIG, ACE nhân thọ, ACE phi nhân thọ, MetLife.

Triển vọng kinh tế vĩ mô và triển vọng thị trường tài chính trong những năm tới của Việt Nam là rất đáng khích lệ. Chính phủ Việt Nam xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2021 với tốc độ tăng trưởng GDP 6,5-7%; lạm phát khoảng 5-7%. Các tín hiệu về triển vọng chính sách mới, quyết tâm cải cách của Chính phủ Việt Nam, tín hiệu tích cực của kinh tế Việt Nam thời gian qua, đặc biệt từ đầu năm 2015 đến nay cùng với triển vọng của các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam với các đối tác lớn như EU, Liên minh Kinh tế Á - Âu, Hàn Quốc...và sắp tới đây như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang mở ra những cơ hội và triển vọng rất tươi sáng đối với Việt Nam.

Trên tinh thần đó, Bộ Tài chính nước CHXHCN Việt Nam phối hợp với các đối tác Hoa Kỳ tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư ngày hôm nay nhằm tạo một kênh đối thoại thực chất giúp cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư Hoa Kỳ hiểu rõ hơn tình hình Việt Nam, hiểu rõ hơn chủ trương và quyết tâm đổi mới của Chính phủ Việt Nam, và quan trọng nhất là củng cố lòng tin của nhà đầu tư Hoa Kỳ đối với tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam.

Năm 2015 vừa là cột mốc kỷ niệm, vừa là cơ hội để đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác giữa hai nước. Năm nay cũng là năm chúng ta nhìn lại chặng đường 20 năm quan hệ giữa hai nước để thấy chúng ta đã tiến được những bước đi khá dài trong quan hệ song phương, đồng thời cũng thẳng thắn nhìn ra những điểm chưa thực hiện được để từ đó cùng nhau bàn bạc, đưa ra những giải pháp phù hợp với mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ đầu tư thương mại của hai nước, xây dựng quan hệ đối tác toàn diện và sâu rộng trong lĩnh vực tài chính, cũng như đưa sự hợp tác giữa hai Chính phủ lên một tầm quan hệ mới, vì lợi ích chung của hai bên.

Chúng tôi cũng cho rằng, hòa bình - ổn định - hợp tác - cùng nhau phát triển là mục tiêu và mong muốn chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Chúng ta cần duy trì ổn định và hành động có trách nhiệm để bảo đảm mục tiêu trên, do vậy chúng tôi hoan nghênh mọi nỗ lực của các nước, đặc biệt là các nước lớn như Hoa Kỳ nhằm góp phần vào thịnh vượng chung của thế giới cũng như giữa 2 nước chúng ta.

Chúc các bạn thành công, chúc cho quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ ngày càng hiệu quả và sâu sắc hơn.

PV

Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Tài chính

http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/ttsk/3312584?pers_id=2177092&item_id=175672091&p_details=1

 


TRƯNG CẦU Ý KIẾN TRƯNG CẦU Ý KIẾN

Đánh giá của bạn về Giao diện và nội dung Trang tin điện tử Sở Tài Chính Hà Giang?

Thông Tin Thị Trường Thông Tin Thị Trường